Trò chuyện cùng Quyền Thiện Đắc về “Dân gian trên Jazz/Dân gian trên Dây”
Phỏng vấn: U.Ly và Ngụy Hải An
Ảnh do nhân vật cung cấp
Vui lòng ghi rõ nguồn Hanoi Grapevine khi chia sẻ bài
Không sao chép từng phần hoặc nguyên văn khi chưa có sự cho phép
“Dân gian trên Jazz/Dân gian trên Dây” – chương trình hòa nhạc quy mô và táo bạo hội tụ hơn 40 nghệ sĩ tên tuổi của nhiều lĩnh vực: âm nhạc truyền thống, jazz và giao hưởng – sẽ diễn ra một đêm duy nhất 19/12 tại Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam. Hanoi Grapevine đã có dịp trò chuyện với Giám đốc âm nhạc của chương trình, nghệ sĩ nhạc jazz nổi bật của Việt Nam Quyền Thiện Đắc, để hiểu thêm về ý tưởng, tinh thần và quá trình hình thành của hòa nhạc này.
Ý tưởng về “Dân gian trên Jazz/Dân gian trên Dây” đến từ đâu? Tại sao anh lựa chọn các chất liệu: Âm nhạc dân gian, nhạc Jazz và giao hưởng kết hợp với nhau?
Làm một chương trình âm nhạc, phải có cái gì để nghe, có câu chuyện để nói. Tôi thì muốn thể nghiệm với âm nhạc dân gian, và từ góc nhìn của người làm jazz, với tôi đương nhiên cầu nối giữa dân gian và giao hưởng là phải là nhạc jazz. Ngôn ngữ chính của jazz là sự ngẫu hứng, nó dùng cái ngẫu hứng để nói lên cá tính của nghệ sĩ. Và chính cái ngẫu hứng đấy của jazz gặp được cái ngẫu hứng của dân tộc.
Bản thân tôi đã có 6 – 7 năm làm việc với các nghệ nhân, làm việc với âm nhạc dân tộc, và từ rất lâu rồi cũng đã muốn làm một chương trình solo với dàn dây, nên muốn tranh thủ sự kết hợp này để thể nghiệm xem dân gian, jazz, giao hưởng gặp nhau sẽ thế nào, để nghe xem hiệu quả của âm nhạc dân tộc đấy – khi jazz là cầu nối ở giữa và kết hợp với giao hưởng thì tổng thể nó lên như thế nào. Tôi tò mò muốn được biết và muốn thể nghiệm điều này.
Xin anh chia sẻ về cấu trúc của chương trình?
Chương trình có 02 chương, chương một có 04 tác phẩm về bốn loại hình âm nhạc dân tộc Tuồng, Chèo, Cải lương và âm hưởng miền núi Tây Bắc. Cả bốn tác phẩm đó đều có sự xuất hiện của nhóm nhạc jazz cùng với các nghệ nhân dân tộc đảm nhiệm vai trò solist (độc tấu): NSƯT Nguyễn Ngọc Khánh – kèn Tuồng, NSƯT Nguyễn Văn Quý – trống tuồng, NSƯT Nguyễn Minh Chí – trống chèo, NSND Đào Văn Trung – guitar cải lương, nghệ sĩ Nguyễn Đức Minh (“Minh Môi”) thổi hai loại sáo là pí thiu và pí pặp. Có Tùng (nghệ sĩ Hoàng Xuân Tùng – PV) hỗ trợ mình và chịu trách nhiệm thêm mảng nhạc jazz, kết nối nhóm jazz với các nghệ nhân dân tộc solist. Khi hai mảng âm nhạc đấy ra thành một tác phẩm rồi thì tác phẩm đó sẽ được Phong (nghệ sĩ Nguyễn Đức Hải Phong – PV) soạn hòa âm cho dàn dây (và kèn đồng – PV).
Chương hai dành giới thiệu các sáng tác mới của nghệ sĩ trẻ, cụ thể có hai bài của Phong – màu sắc pha chút Á Đông, chút jazz và âm nhạc phương Tây, nhưng vẫn có cái lõi dân tộc. Bây giờ để nghệ sĩ trẻ dấn thân vào âm nhạc dân tộc rất khó. Mình muốn dần dần họ phải có cái nhìn khác về âm nhạc dân tộc, muốn nhiều người làm về âm nhạc dân tộc cùng mình. Nên chương trình lần này nghệ sĩ trẻ tham gia là một cơ hội để họ được trải nghiệm và được nghe phản hồi từ lớp đàn anh, từ khán giả, để họ thấy được sự thú vị của âm nhạc dân gian thì họ mới làm.
Sự tham gia và hợp tác của các nghệ sĩ, các chất liệu/ngôn ngữ/dòng âm nhạc khác nhau sẽ kết hợp với nhau như thế nào?
Trong tất cả các tác phẩm đều có ngôn ngữ nhạc jazz trong đấy. Ví dụ trong tác phẩm về Tuồng thì hai nghệ nhân sẽ đánh bài Chiến Hò 7, nhạc cụ có kèn tuồng, trống tuồng đấu với kèn saxo và trống Jazz – làm thành 1 tứ tấu và kết hợp với dàn kèn (một quản nhỏ của giao hưởng). Bài về chèo thì nghệ nhân solist đánh bài Cách cú, dùng thi nhịp của trống chèo, còn nhóm jazz đánh phong cách nhạc jazz cho bài đó. Bài về cải lương thì có đàn guitar phím lõm và guitar jazz đan vào nhau, tạo thành một luồng chảy song song luôn từ đầu, kết hợp với hòa thanh, không gian và ngôn ngữ của nhạc jazz để chơi bản “Nam Xuân”.
Về cái gặp nhau của jazz với dân gian: sử dụng chất liệu nhạc Jazz đương đại nhưng làm sao để vẫn toát lên thần thái của giai điệu âm nhạc dân tộc, bản địa. Ví dụ kèn saxo sẽ chơi giai điệu khác với giai điệu tuồng, nhưng bằng cách nào đấy nó vẫn phải là một phần trong tác phẩm tuồng. Nó là một dạng đồng hiện nhưng nó không thể nào là ông đánh xuôi bà thổi ngược.
Như thế trong cách làm việc này thì mọi xuất phát điểm là dựa trên chất liệu của âm nhạc truyền thống?
Đúng rồi, cái lõi của chương trình này là dân gian, dân tộc. Tạo ra khung cảnh, không gian là dàn dây (và kèn đồng). Còn jazz là cầu nối.
Vậy cách chơi của các nghệ nhân truyền thống khi kết hợp cùng jazz và giao hưởng có thay đổi gì không? Làm sao giữ được cái chất/tinh thần truyền thống mà vẫn kết hợp hài hòa cả ba ngôn ngữ?
Lòng bản cổ truyền (lõi giai điệu) của nhạc dân tộc được giữ nguyên, không thay đổi. Cũng có nhịp nhưng bản thân âm nhạc đấy nó không định khung, lòng bản vốn khi chơi cho các kép hát đào hát cũng luôn biến hóa, ví dụ như khi diễn viên diễn dài hơn thì nhạc công cũng phải chơi dài hơn.
Vậy nên trong chương trình này, công việc kết hợp với các nghệ nhân phải làm sao luôn luôn để cho các thầy ở một khoảng không gian rất thoải mái, để họ được chơi một cách tự do và phóng khoáng đúng như văn hóa, lối chơi của họ bao nhiêu năm nay.
Ta không thể nào tổ chức theo kiểu đến chỗ này các nghệ nhân sẽ thổi nốt gì, nó sẽ mất hết tinh thần của nhạc dân gian dân tộc. Nghệ nhân dân tộc thường không dùng bản nhạc, còn giao hưởng lại có cấu trúc chặt chẽ, còn người chơi Jazz tuy có thể làm được cả hai (vừa chơi theo bản nhạc vừa ngẫu hứng) nhưng họ chưa đủ trải nghiệm và hiểu về nhạc dân tộc để chơi free jazz trên cái lõi dân tộc. Vậy nên ở đây vẫn cần bố cục. Công việc mà mình làm là tìm một bộ khung hợp lý nhất cho cả ba, và phải làm bằng mọi cách: không chỉ viết nhạc mà thậm chí phải dùng cách nhớ, thuộc lòng nữa. Mình phải giải quyết chuyện làm sao để bên jazz, bên giao hưởng nhận biết được tín hiệu của bên dân tộc, ví dụ như khi nào trống tuồng báo hết câu… Làm sao để cho âm nhạc dân gian quyện vào, nhạc jazz bện vào, và tổng thể dàn dây bao hết không gian. Quan trọng nữa là phải làm tối giản, không làm phức tạp, đấy là một cách giải quyết vấn đề bất đồng ngôn ngữ.
Thường xuất hiện trên các sân khấu với tư cách nghệ sĩ biểu diễn, vì sao lần này anh lại tham gia “Dân gian trên Jazz / Dân gian trên Dây” trong vai trò của một Giám đốc âm nhạc?
Vì tôi muốn trong chương trình này, mình là người đứng ngoài để bao quát hết mọi thứ, muốn được nghe hết mọi thứ, để cho mọi người làm xong, mình nghe và góp ý, giải quyết các vấn đề ngay tại chỗ. Nó sẽ cho mình một trải nghiệm nữa không chỉ là nghệ sĩ biểu diễn mà là người sắp đặt âm thanh, mình là người ở đó quan sát, hình dung ra và điều phối mọi thứ. Suy cho cùng tất cả cũng là để có một tư duy âm nhạc tốt hơn, và để có thể tiếp tục làm việc với âm nhạc dân gian.
Theo anh cái “được” của các nghệ sĩ và khán giả khi tham gia chương trình này là gì?
Tôi nghĩ chương trình này bản thân các nghệ sĩ là người “được” đầu tiên. Khi nghệ sĩ chơi thì họ phải được hưởng thụ trước. Và khi họ hưởng thụ cái điều đấy rồi thì họ sẽ chia sẻ nó cho khán giả, để khán giả hưởng thụ và cảm nhận được.
Về khán giả, có lẽ chương trình này cũng tương đối “kén” so với mặt bằng thị trường nhưng dù sao không phải là không có khán giả. Ít nhất là những người thầy – nghệ nhân tên tuổi của nhạc dân tộc sẽ có những người trò học cần được xem, được nhìn những người thầy của mình đang làm không chỉ công việc bảo tồn bảo tàng mà còn làm công việc phát triển (âm nhạc truyền thống).
Với người chơi jazz, những học sinh chơi jazz thì họ phải nhìn thấy được là mặc dù chơi jazz nhưng mình vẫn biết cội nguồn dân tộc ở đâu. Còn với những người chơi trong giao hưởng thì với chương trình này họ sẽ được nhìn kỹ hơn, để hiểu hơn về cái phóng khoáng của nhạc jazz và cái biến hóa của nhạc dân tộc.
Cái lõi của chương trình là dân tộc. Khán giả đi xem sẽ biết được là bây giờ người ta làm âm nhạc dân tộc như thế nào, truyền tải bằng ngôn ngữ thời đại này như thế nào, và qua đó tôi mong là mọi người sẽ có cái nhìn khác về âm nhạc dân tộc.
Cảm ơn anh đã dành thời gian trò chuyện, và chúc chương trình hòa nhạc sắp tới thật thành công!
Về nghệ sĩ:
QUYỀN THIỆN ĐẮC là con trai duy nhất của huyền thoại nhạc jazz Việt Nam – NSƯT Quyền Văn Minh và hiện được biết đến như là một trong những “cây” saxophone nổi tiếng nhất của Việt Nam. Anh bộc lộ tài năng âm nhạc thiên phú từ khi còn trẻ và liên tiếp tạo được nhiều dấu ấn qua những thành công được ghi nhận ở trong nước và quốc tế.
Đắc theo học kèn clarinet từ năm 12 tuổi tại Nhạc viện Hà Nội rồi chuyển sang học saxophone vào năm 1994. Năm 2011, anh thi đỗ học bổng 03 năm tại Trường Đại học Berklee College of Boston (Mỹ), sau đó tốt nghiệp với số điểm tốt nghiệp cao nhất của ngành nhạc jazz cùng phần thưởng là học bổng danh dự của khoa Kèn. Năm 2014, Đắc trở về Việt Nam với tấm bằng thạc sĩ từ Học viện Âm nhạc Malmo (Thụy Điển). Anh cũng là nghệ sĩ saxophone đầu tiên của Việt Nam có bằng cấp quốc tế. Bên cạnh hoạt động biểu diễn, từ cuối năm 2015, Đắc trở thành giảng viên khoa Saxophone Jazz ở Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam.
Dù nhận được nhiều lời mời làm việc tại châu Âu, Mỹ, anh đều từ chối tất cả các cơ hội để chuyên tâm với con đường nghệ thuật ở Việt Nam, với khát vọng được cống hiến cho âm nhạc Việt. Trên hành trình đó Quyền Thiện Đắc luôn nghiên cứu và tìm kiếm các khả năng kết hợp khác nhau của Jazz với âm nhạc dân gian hay nhạc cụ truyền thống, với mong muốn phát triển âm nhạc truyền thống trong những không gian âm nhạc mới lạ và đương thời hơn.